Bình luận về những nguyên nhân dẫn đến việc ký kết Hiệp ước Hiệp_ước_Xô-Đức

Những ý kiến về nỗ lực của Liên Xô để tránh chiến tranh với Đức

Các thỏa thuận đã được ký kết sau khi các cuộc đàm phán Moskva, được tổ chức vào mùa xuân và mùa hè năm 1939 giữa Liên Xô, Anh và Pháp để đi đến một thỏa thuận ba bên về tương trợ lẫn nhau và quy ước cụ thể về việc sử dụng quân đội cho các biện pháp đảm bảo an ninh tập thể ở châu Âu đã thất bại (dự thảo hiệp ước đã được trình lên Chính phủ Liên Xô vào ngày 2 tháng 6). Tiến trình cuộc đàm phán đã bộc lộ thái độ thiếu thiện chí của Anh và Pháp trong việc đưa ra một cam kết quân sự cụ thể và xây dựng kế hoạch thực tế nhằm chống lại một cuộc xâm lược của Đức có thể xảy ra. Hơn nữa, song song với các cuộc đàm phán Moskva, chính phủ Anh vẫn theo đuổi cuộc đàm phán tại Luân Đôn với các đại diện của Đức về phân định khu vực ảnh hưởng.[77] Và nó làm tăng thêm nỗi lo ngại của chính quyền Xô viết đối với các đối tác phương Tây về xu hướng đẩy cuộc xâm lược của Hitler sang phía đông. Điều này đã xảy ra với Tiệp Khắc sau khi Anh và Pháp ký với Đức Hiệp định Munich năm 1938. Với kết quả thất bại của cuộc đàm phán Moskva, Liên Xô đã mất hy vọng cho một liên minh quân sự với các cường quốc phương Tây khi họ vẫn mang tư tưởng thù địch. Trong khi đó thì đối thủ tiềm năng đe dọa đường biên giới của họ ở phương Tây là Đức đang được nuôi dưỡng; và ở phía Đông, họ lại đang có một cuộc chiến đấu để chống lại các hành động xâm lược của Nhật Bản. Trong các trường hợp đó, Liên Xô đã buộc phải chấp nhận đề nghị của Đức để bắt đầu đàm phán về một hiệp ước không xâm lược lẫn nhau.[78]

Lập trường của các cường quốc phương Tây là nguyên nhân sự thất bại của cuộc đàm phán Moskva và đưa Liên bang Xô viết đứng trước sự lựa chọn: hoặc sẽ bị cô lập trước khi mối đe dọa sắp xảy ra với các cuộc tấn công của phát xít Đức; hoặc khi đã không còn khả năng thiết lập một liên minh với Anh và Pháp thì phải đàm phán với Đức để ký một hiệp ước không xâm lược. Và do đó loại bỏ các mối đe dọa chiến tranh. Tình hình cho thấy sự lựa chọn thứ hai là không thể tránh khỏi. Ngày 23 tháng 8 năm 1939, Hiệp ước Xô-Đức đã được ký kết. Trái với sự mong đợi của các chính trị gia phương Tây, chiến tranh thế giới đã bắt đầu với cuộc xung đột trong thế giới tư bản.[78] Như vậy, xét về lịch sử, quyết định của Liên Xô ký kết hiệp ước không xâm lược lẫn nhau với Đức vào năm 1939 là cách duy nhất để tránh chiến tranh với Đức và với các nước tham gia Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản khác. Khi đó Liên Xô xét thấy mình đang ở trong tình trạng cô lập, không có đồng minh.[79]

Những giả thiết về mục đích bành trướng của Stalin

Theo ý kiến của một số nhà nghiên cứu, Hiệp ước Xô-Đức là một biểu hiện tham vọng bành trướng của Stalin. Những người tìm cách đẩy Đức sang phía "dân chủ phương Tây" có cớ để vui mừng vì họ có thể được chứng kiến sự Xô Viết hoá Tây Âu[80]. S. Z. Slutch cho rằng Stalin đã nhận thấy Đức là một "đồng minh tự nhiên" đặc biệt trong cuộc đấu tranh chống lại thế giới tư bản. Vì vậy, ông ta mô tả hiệp ước:"Trong thực tế, lục địa châu Âu trước chiến tranh thế giới thứ hai đã được phân chia giữa hai kẻ độc tài đại diện cho trật tự quốc tế với nhiều khía cạnh tương tự như hành vi của chủ nghĩa gangster chính trị, ngoại trừ những khác biệt về quy mô và mức độ đạo đức giả."[81]

Những giả thiết về động cơ hành động theo lợi ích dân tộc của Stalin

Cách giải thích này xem những hành động của Stalin chỉ có tính thực dụng đối với triều đình của mình. Theo đó, Stalin đã có một thời gian để lựa chọn giữa một mặt là Đức và mặt khác là Anh, Pháp. Nhưng sau này, khi phải đối diện với hệ tư tưởng không phù hợp, ông muốn giữ khoảng cách với chiến tranh bằng những lợi ích có tính "bạn bè" với Đức, đặc biệt là việc tranh thủ các lợi ích chính trị Liên Xô tại Đông Âu. Ý kiến này đã được Winston Churchill nêu ra ngay sau khi ký kết hiệp ước.

Theo ý kiến của Giáo sư sử học Jeffrey Roberts thuộc Đại học Ailen, chính sách thỏa hiệp của Liên Xô dựa trên cơ sở tính thực tế mong muốn hạn chế khu vực ảnh hưởng của Đức. Trong đó sẽ ưu tiên đảm bảo nhu cầu về an ninh của quốc gia, chủ yếu là để giữ cho đất nước không bị hút vào cuộc chiến và để hạn chế sự mở rộng của Đức về phía đông.[82] Cũng cần lưu ý là nhiều nhà sử học cho rằng nước Anh, Pháp, do có quan điểm riêng về lịch sử đối lập với Liên Xô, nên đã tập trung hướng các nỗ lực xâm lược của Đức về phía đông của châu Âu. Nói chung, mỗi tác giả đều theo cách riêng của mình giải quyết các câu hỏi về mối quan hệ giữa các hành động của những thủ thuật của Stalin và "buộc" cho ông đã hành động theo "chủ nghĩa thực dụng" và động cơ bành trướng ý thức hệ.

Về những lựa chọn có thể thay thế cho việc ký kết hiệp ước

Không có bất kỳ thỏa thuận với Liên Xô và không biết ý định của Stalin; Hitler có khả năng thuyết phục Ba Lan tham gia Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản. Trong trường hợp đó Đức sẽ cùng với Ba Lan tấn công Liên Xô. Cùng thời gian trên, Mặt trận phía Tây nước Đức có thể không bị đe dọa, do Anh và Pháp vẫn có thể đứng ngoài cuộc xung đột này. Trong trường hợp này, sự cân bằng quyền lực, đặc biệt là về không gian, sẽ không tiến triển có lợi của Liên Xô. Đức và Ba Lan sẽ có thể dùng vấn đề Litva để đẩy lùi đường biên giới Liên Xô.[83].

Động cơ có thể có của Stalin

Những tính toán để tránh sự khiêu chiến

Theo một số nhà nghiên cứu, Stalin không ảo tưởng và chưa bao giờ là người tin tưởng hoàn toàn rằng người ta có thể thực hiện chính sách an ninh tập thể với một chủ trương nghiêm túc theo tuyên bố chính thức của Litvinov. Đáng chú ý là vấn đề an ninh tập thể đã không đề cập đến trong cuốn Lược sử Đảng Cộng sản toàn Nga (b), được tái bản với một phần văn bản do Stalin biên soạn lại. Hơn nữa, trong bản được xuất bản năm 1938, còn có lập luận rằng "cuộc chiến tranh đế quốc lần thứ hai đã bắt đầu trên thực tế".[84] Vì vậy, các sự kiện chính trị do Stalin điều hành trong tình trạng như là đã có một cuộc chiến tranh giữa các nước đế quốc. Phó ủy viên nhân dân phụ trách giáo dục V. Potemkin đã định nghĩa trong Tạp chí Bolshevik "khái niệm chính thức của chiến tranh đế quốc lần thứ hai và triển vọng của nó":

"Chiến tranh đế quốc thứ hai là sự mở rộng toàn bộ các mặt trận. Nói cách khác là nó vượt ra khỏi phạm vi một vài quốc gia. Những trận đánh lớn của nhân loại sẽ bắt đầu một cuộc cách mạng trên thế giới. Kết quả, Liên bang Xô viết có trách nhiệm nặng nề, một là phát triển đầy đủ và vượt bậc, và hai là tăng cường sự bền vững của nền dân chủ cách mạng, giúp đỡ các nước bị nô dịch trong hệ thống tư bản nổi dậy."[85]

Tại Hội nghị Đảng bộ Leningrad ngày 3 tháng 3 năm 1939; Bí thư Đảng bộ A. A. Zhdanov cũng cho rằng những dự báo trong đoạn báo cáo của Stalin "về những bài phát biểu có màu hạt dẻ" là đúng và tóm tắt tình hình như sau: Moskva coi nhiệm vụ "tiết kiệm thời gian là sức mạnh của chúng ta để chờ đến khi sự đổ vỡ xuất hiện trong liên minh Hitler và Mussolini, nhưng đồng thời và tất nhiên là với cả Chamberlain."[85]

Từ đây, một số nhà nghiên cứu kết luận rằng Stalin coi nguyên nhân làm suy yếu hệ thống đế quốc là các cuộc chiến tranh được tiến hành theo kế hoạch nhằm mục đích chính trị của họ. Theo S. Z. Slutch, Stalin đã nhận thấy tham vọng của các nước đế quốc trong sự phát triển đối đầu trên trường quốc tế và coi đó là cơ sở thực tế để xác định lợi ích an ninh quốc gia của mình, đồng thời tìm cách làm cho thế giới tư bản phải "lùi một bước".[86]

Năm 1935, Stalin đã viết điện khẩn gửi Kaganovich:

"Các cuộc tranh chấp ngày càng mạnh mẽ hơn giữa các thế lực tư bản độc quyền nhà nước có lợi hơn cho Liên Xô. Chúng ta có thể bán bánh mì cũng như nhiều thứ khác. Vì vậy họ có thể chiến đấu.<...> Chúng ta đang thuận lợi cho một cuộc chiến có nhiều khả năng kéo dài nhưng không thể chiến thắng một cách nhanh chóng."[87]

Những tư duy trên vẫn được Stalin thể hiện sau Chiến tranh thế giới thứ hai khi ông trao đổi với Georgi Dimitrov:

"Chiến tranh giữa hai nhóm nước tư bản (nước tư bản giàu với nước tư bản nghèo) vì mục đích tranh giành thuộc địa, nguyên liệu thô, v.v... là để thống trị các vùng trên thế giới! Chúng ta nhớ rằng họ đã chiến đấu tốt và đã làm suy yếu lẫn nhau. Không xấu, nếu bàn tay của Đức phải rung động bởi tình hình của những nước tư bản giàu của nhất (đặc biệt là Anh). Hitler đã không hiểu và không muốn lay động, phá hoại hệ thống tư bản... Chúng ta cần phải linh hoạt, đẩy một bên chống một bên khác là cách tốt nhất... Vậy có gì là sai trái khi với thất bại của Ba Lan, chúng ta đã phát triển hệ thống xã hội chủ nghĩa trên lãnh thổ mới và dân cư mới?"[88]

Về vấn đề này, một số nhà sử học cho rằng Stalin đã thực sự tuân theo "luật chơi" mà ông nêu trong bài phát biểu của ông khi đánh giá các quan hệ với nước Anh, Pháp:

"Thực chất, chính sách không can thiệp có thể được mô tả như sau: "Hãy để mọi quốc gia để bảo vệ bản thân chống xâm lược như họ muốn và làm thế nào để bên chúng tôi có thể kinh doanh, chúng tôi sẽ thương lượng với cả kẻ xâm lược lẫn nạn nhân của nó." Tuy nhiên, trên thực tế, đó là một chính sách buông thả cho sự xâm lược và làm cho chiến tranh bùng nổ. Và cũng do đó mà nó chuyển thành một cuộc chiến tranh thế giới. Chính sách không can thiệp đã phản bội lại ý muốn không can thiệp. Và ý muốn không can thiệp đã bị cuộc chiến tranh xâm lược làm dơ bẩn chính sách đó. Chính sách ấy đã đẩy tất cả các bên tham gia cuộc chiến sa lầy trong vùng bùn của chiến tranh rồi lặng lẽ khuyến khích, cung cấp cho họ những gì họ cần để làm suy yếu lẫn nhau. Và sau đó khi họ đã đủ yếu, người làm chủ cuộc chơi mới bước lên sân khấu với sức mạnh đổi mới, tất nhiên là để nói chuyện "vì hòa bình" và để sai khiến người tham gia chiến tranh đã suy yếu làm theo các điều khoản của chính mình. Rẻ quá và tốt đẹp quá!"[80]

Cách nhìn của Stalin về "Vị thế của nhà nước Liên Xô"

Một số nhà nghiên cứu cho rằng Stalin, khi đưa ra đề nghị về một cuộc đấu tranh chung chống Hitler không hẳn xuất phát từ sự vô tư vì đề nghị đó thể hiện quyền lợi của Moskva. Họ dựa vào một số báo cáo, trực tiếp hay gián tiếp, lật lại vấn đề này của Stalin. Một trong các số báo Pravda (Sự thật) ra năm 1940 sau đây có thể xác định hành vi của Liên bang Xô viết trước khi ký hiệp ước:

"Liên Xô đã tìm cách thực hiện nghĩa vụ quốc tế của mình ở biên giới phía tây của nước ta và thúc đẩy hòa bình, và Liên Xô bỏ qua những vấn đề này trong quan hệ ngoại giao với Anh-Pháp để tổ chức cuộc chiến tranh với sự tham gia của Liên bang Xô viết".[89].

Những điểm trên cũng thấy trong lời của Stalin với Georgi Dimitrov (ngày 7 tháng 9 năm 1939). điều này cho thấy rằng Stalin đã hy vọng có được sự "thanh toán" cho một liên minh với các nền dân chủ:

"Chúng ta ưa thích một thỏa thuận với cái gọi là các nước dân chủ, và vì thế nên phải thương lượng. Tuy nhiên, Anh và Pháp muốn có chúng ta trở thành người làm thuê, và hơn thế nữa là người làm thuê không phải trả công! Chúng ta chắc chắn sẽ không thể là một người làm thuê, ngay cả với mức độ ít nhất mà không đạt được bất cứ điều gì."[90]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Hiệp_ước_Xô-Đức http://www.petrograd.biz/stalin/14-27.php http://mahtrasass.livejournal.com/46977.html http://mahtrasass.livejournal.com/49674.html http://www.tapirr.com/texts/history/suvorov/pravda... http://aleph.nkp.cz/F/?func=find-c&local_base=aut&... http://books.google.de/books?ei=ke--TP6UJ4jOswbRo7... http://books.google.de/books?id=3hQmwTWoqHYC&lpg=P... http://books.google.de/books?id=a8c0AAAAIAAJ&q=Fin... http://www.fordham.edu/halsall/mod/1939pact.html http://d-nb.info/gnd/4011957-9